Nguyễn Học
Người con gái đi lấy chồng, ngày cưới bao giờ trên cổng nhà cũng treo hai chữ Vu Quy hoặc Lễ Vu Quy.
Dường như, đó như một phong tục tập quán, một nếp sống đám cưới truyền thống, thể hiện đạo lí của dân tộc ta từ xa xưa mà nơi nào cũng có. Cùng với chữ “song hỉ” viết bằng chữ Hán, chữ Vu Quy tạo nên một không khí đám cưới vui vẻ, trang nghiêm, một cặp bài trùng, theo quan niệm truyền thống trong dân gian, nó luôn mang lại hạnh phúc và tốt lành cho gia đình và cô dâu.
Vậy, vu quy là gì? Nguồn gốc có từ đâu?. Theo giải thích của giáo sư Đào Duy Anh, vu quy là con gái về nhà chồng (Từ điển Hán Việt, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Hà Nội 2001, trang 564). Từ điển Tiểng Việt cũng giải thích “Vu quy: đi lấy chồng” (Đại từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như ý chủ biên, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin. Hà Nội, 1998, trang 1833)
Tra lục các sách về Điển cố văn học Việt Nam, Từ điển Truyện Kiều”, “Từ điển Văn học” đến các phần giải thích chữ vu quy xuất hiện trong các sách văn học, lịch sử, các học giả, nhà nghiên cứu đều cho một thông tin giống nhau. Sách Tổng tập Văn học Việt Nam chú thích hai chữ vu quy trong câu Kiều “Định ngày nạp thái vu quy/Tiền lưng đã sẵn, việc gì chẳng xong” rằng: Vu quy, con gái về nhà chồng. Chữ lấy trong Kinh Thi, thiên Thước Sào: Duy thước hữu sào/ Duy cưu cựu chi/ Chi tử vu quy/ Bách lưỡng nhạ chi, được dịch là: Con chim thước có tổ/ con chim cưu đến ở/ Nàng ấy đi lấy chồng. Đây là dùng chữ vu quy để chỉ lễ rước dâu, (Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 12. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Hà Nội - 1996, trang 107). Bộ sách Kinh Thi, nhiều lần nhắc đến chữ Vu quy. Chỉ tính riêng thiên Thước Sào (Bài thứ 12) ở trên, có 3 bài. Xin được chép tiếp ra đây 2 bài còn lại để bạn đọc tham khảo:
Chương II: “Duy thước hữu sào/ Duy cưu phương chi/ Chi tử vu quy/ Bách lưỡng tương chi”. Dịch nghĩa: “ Con chim thước có ổ/ Con chim cưu giành làm của mình có/ Nàng ấy đi lấy chồng./ Hàng trăm cỗ xe đưa dâu”. Chương II: Duy thước hữu sào/ Duy cưu doanh chi/ Chi tử vu quy/ Bách lưỡng thành chi”. Dịch nghĩa “Con chim thước có ổ/ Chim cưu đến ở đông đầy/ Nàng ấy đi lấy chồng/ Hàng trăm cỗ xe tham dự để trở thành cuộc hôn nhân” (Theo Khổng Tử, Kinh Thi, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Tạ Quang Phát dịch, tập 1 trang 82, 83).
Mặc dù tích này có từ Trung Quốc, nhưng, khi sử dụng và kế thừa những giá trị văn hóa cổ của Trung Hoa, cha ông ta đã vận dụng một cách sáng tạo, dung hòa với nền văn hóa nước ta, đồng thời cũng là để giữ gìn, đề cao bản sắc văn hóa Việt Nam. Trong hàng ngàn năm giao lưu, trao đổi văn hóa với Phương Bắc, nhân dân nước Việt, Nhà Nho nước Việt luôn chọn lọc lấy những cái hay, cái tinh túy của các nền văn minh, văn hóa khác, đặc biệt là văn hóa phương Bắc để bổ sung, làm giàu có, phong phú thêm những giá trị văn hóa của mình. Trường hợp Truyện Kiều - đỉnh cao của nền văn học Việt Nam là một ví dụ. Đại thi hào Nguyễn Du nhiều lần sử dụng điển tích vu quy, nhưng ở mỗi hoàn cảnh, mỗi dòng lục bát lại mang một nội dung mới, màu sắc mới.
Câu 651 - 652: “Định ngày nạp thái vu quy/ Tiền lưng đã sẵn, việc gì chẳng xong”. Chữ Vu quy ở đây được đặt trong lời của Mã Giám Sinh khi y mua Kiều. Hành động buôn thịt bán người bỉ ổi của Mã đã được ngụy trang bởi hai chữ vu quy. Dòng thơ “Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong” như một minh chứng cho bản chất thấp hèn, ti tiện của Mã. Vu quy không còn mang ý nghĩa vui vẻ. Chữ vu quy đánh dấu bước đầu tiên 15 năm lưu lạc của cuộc đời Thúy Kiều. Câu 957-958: “Đủ điều nạp thái vu quy/ Đã khi chung chạ, lại khi đứng ngồi” là lời của Thúy Kiều nói với Tú Bà. Rằng, nàng và Mã có lễ cưới, có rước dâu hẳn hoi chứ nàng đâu phải là gái làng chơi, để mụ Tú sinh chuyện. Kì thực, nàng Kiều lúc này còn chưa hiểu hết cơ sự khi sa chân vào chỗ của bọn “mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường”. Vu quy chuyển sang ý nghĩa thông báo một sự kiện đã xảy ra như bao sự kiện khác chứ không phải là một ngày trọng đại của người con gái về nhà chồng…
Câu 2263-2264: “Cung nga thể nữ nối sau/ Rằng vâng lệnh chỉ rước chầu vu quy”. Câu thơ tả cảnh giáp binh, quân tướng của Từ Hải với “phượng tiễn loan nghi; hoa quan chấp chới…” đến đón Kiều về làm phu nhân Từ Hải. Có lẽ, trong Truyện Kiều, trường hợp chữ vu quy này được dùng đắc địa, đúng như ý nghĩa, tính chất của nó. Đặc biệt là đối với Kiều. Lấy Từ Hải, nàng mới có hạnh phúc. Truyện Kiều, còn một trường hợp có chữ vu quy: “Tuy rằng hai chữ vu quy/ Vui này đã cất sầu kia được nào” (câu 2843 –2844)
Đây là tâm sự của Kim Trọng khi chàng cưới Thúy Vân về làm vợ. Song, khách quan mà nói, nếu chàng Kim mà dùng từ vu quy thì e rằng không ổn lắm…
Trong cuộc sống hiện nay, ở mỗi thôn xóm, mỗi bản làng, mỗi phường phố, khi người con gái đi lấy chồng, gia đình nhà gái thường treo hai chữ VU QUY rất to trên cổng. Song không biết có bao nhiêu “tân cô dâu” suy nghĩ về hai chữ này? Đi lấy chồng là chuyển sang một môi trường sống mới với biết bao mối quan hệ, còn gặp biết bao bộn bề của cuộc sống. Nàng dâu đã chuẩn bị hành trang cho mình những gì để bước vào cuộc sống làm dâu bên nhà chồng? Qủa thực, ẩn chứa đằng sau hai chữ Vu quy ấy, có biết bao nhiêu vấn đề. Dư luận xã hội đã lên án nhiều cảnh đám cưới tổ chức tốn kém, vụ lợi diễn ra ở đâu đó trên cả nước. Gả chồng, vu quy không những là ngày trọng đại của đời người con gái, một đại sự của gia đình và dòng họ, nó còn là một nét văn hóa: văn hóa đám cưới. Chẳng biết, khi gả chồng, người ta thực hiện có văn hóa, theo phong tục truyền thống, thuần phong mĩ tục cao qúy của dân tộc hay không, hay đó lại là những sự tính toán về kinh tế, trao đổi. Hoặc là những sự lo âu (chạy bụng)… .
Đất nước càng văn minh, văn hóa càng phát triển, lành mạnh thì vu quy cũng phải văn minh, lành mạnh lên. Hơn nữa, chúng ta đang đứng trước sự toàn cầu hóa mạnh mẽ diễn ra trên toàn thế giới. Ngày 3 tháng 11 năm 2002, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) đã công bố Công ước quốc tế về đa dạng văn hóa. Với bản Công ước này, người ta chú ý nhiều đến vấn đề bản sắc văn hóa của các dân tộc. Tổ chức đám cưới, lễ Vu quy theo đúng phong tục tốt đẹp của cha ông là một nét văn hóa độc đáo, đặc sắc. Bảo tồn, phát huy những nét đặc sắc của phong tục cưới xin truyền thống nhưng cũng rất hiện đại là một công việc cấp thiết, mang tính thời sự cao, đồng thời cũng thể hiện một thái độ của thế hệ kế tiếp là trân trọng, cầu thị, biết giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa, một kho báu vô giá, được được chau chuốt, gọt dũa, tích tụ hàng nghìn năm do tổ tiên để lại. Một đám cưới, một lễ Vu quy biểu hiện nét văn hóa, trình độ nhận thức và phong cách của gia đình, dòng họ. Chúng ta, ai cũng muốn, sau lễ vu quy, thì con người trong gia đình, họ hàng sống gần gũi, tình cảm, thân thiết với nhau hơn, người con gái về nhà chồng được hạnh phúc trọn vẹn, theo đúng nghĩa vu quy, lấy tình cảm, đạo đức làm trọng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét