Thứ Năm, 11 tháng 11, 2010

NHỚ LẮM SAO QUÊN

Biết tim ta đâu có tội gì
Nhưng vẫn đau nhói quá chừng
Dẫu là sai cố bảo đừng không thể
Đã từng quên, bất chợt hiện về
Ta lờ đi lặng lẽ thờ ơ


Bình tâm lại cho cảm giác yêu đời
Ôi nhớ quá đêm nào nghiệt ngã
Nghĩ bên này thấy ám ảnh bên kia
Chắc là yêu quá rồi không đủ để quên
Mà không quên nghĩa là không xa lạ
Tình nồng quá hồn run đến là lạ.
Không thể nói thành lời như ta đã
Nghĩ bao nhiêu cũng chẳng giải quyết được gì

Thứ Năm, 4 tháng 11, 2010

VU QUY


Nguyễn Học

                                                        
Người con gái đi lấy chồng, ngày cưới bao giờ trên cổng nhà cũng treo hai chữ Vu Quy hoặc Lễ Vu Quy.
Dường như, đó như một phong tục tập quán, một nếp sống đám cưới truyền thống, thể hiện đạo lí của dân tộc ta từ xa xưa mà nơi nào cũng có. Cùng với chữ “song hỉ” viết bằng chữ Hán, chữ Vu Quy tạo nên một không khí đám cưới vui vẻ, trang nghiêm, một cặp bài trùng, theo quan niệm truyền thống trong dân gian, nó luôn mang lại hạnh phúc và tốt lành cho gia đình và cô dâu.

Vậy, vu quy là gì? Nguồn gốc có từ đâu?. Theo giải thích của giáo sư Đào Duy Anh, vu quy là con gái về nhà chồng (Từ điển Hán Việt, Nhà xuất bản  Khoa học Xã hội. Hà Nội  2001, trang 564). Từ điển Tiểng Việt cũng giải thích “Vu quy: đi lấy chồng” (Đại từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như ý chủ biên, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin. Hà Nội, 1998, trang 1833)

Tra lục các sách về Điển cố văn học Việt Nam, Từ điển Truyện Kiều”, “Từ điển Văn học” đến các phần giải thích chữ vu quy xuất hiện trong các sách văn học, lịch sử, các học giả, nhà nghiên cứu đều cho một thông tin giống nhau. Sách  Tổng tập Văn học Việt Nam chú thích hai chữ vu quy trong câu Kiều “Định ngày nạp thái vu  quy/Tiền lưng đã sẵn, việc gì chẳng xong” rằng: Vu quy, con gái về nhà chồng. Chữ lấy trong Kinh Thi, thiên Thước Sào: Duy thước hữu sào/ Duy cưu cựu chi/ Chi tử vu quy/  Bách lưỡng nhạ chi, được dịch là:  Con chim thước có tổ/ con chim cưu đến ở/ Nàng ấy đi lấy chồng. Đây là dùng chữ vu quy để chỉ lễ rước dâu, (Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 12. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Hà Nội - 1996, trang 107). Bộ sách Kinh Thi, nhiều lần nhắc đến chữ Vu quy. Chỉ tính riêng thiên Thước Sào (Bài thứ 12) ở trên, có 3 bài. Xin được chép tiếp ra đây 2 bài còn lại để bạn đọc tham khảo:

Chương II: “Duy thước hữu sào/ Duy cưu phương chi/ Chi tử vu quy/ Bách lưỡng tương chi”. Dịch nghĩa: “ Con chim thước có ổ/  Con chim cưu giành làm của mình có/ Nàng ấy đi lấy chồng./ Hàng trăm cỗ xe đưa dâu”. Chương II: Duy thước hữu sào/ Duy cưu doanh chi/ Chi tử vu quy/ Bách lưỡng thành chi”. Dịch nghĩa “Con chim thước có ổ/ Chim cưu đến ở đông đầy/ Nàng ấy đi lấy chồng/ Hàng trăm cỗ xe tham dự để trở thành cuộc hôn nhân” (Theo Khổng Tử, Kinh Thi, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Tạ Quang Phát dịch, tập 1 trang 82, 83).

 Mặc dù tích này có từ Trung Quốc, nhưng, khi sử dụng và kế thừa những giá trị văn hóa cổ của Trung Hoa, cha ông ta đã vận dụng một cách sáng tạo, dung hòa với nền văn hóa nước ta, đồng thời cũng là để giữ gìn, đề cao bản sắc văn hóa Việt Nam. Trong hàng ngàn năm giao lưu, trao đổi văn hóa với Phương Bắc, nhân dân nước Việt, Nhà Nho nước Việt luôn chọn lọc lấy những cái hay, cái tinh túy của các nền văn minh, văn hóa khác, đặc biệt là văn hóa phương Bắc để bổ sung, làm giàu có, phong phú thêm những giá trị văn hóa của mình. Trường hợp Truyện Kiều - đỉnh cao của nền văn học Việt Nam là một ví dụ.  Đại thi hào Nguyễn Du nhiều lần sử dụng điển tích vu quy, nhưng ở mỗi  hoàn cảnh, mỗi dòng lục bát lại mang một nội dung mới, màu sắc mới.


Câu 651 - 652: “Định ngày nạp thái vu quy/ Tiền lưng đã sẵn, việc gì chẳng xong”. Chữ Vu quy ở đây được đặt trong lời của Mã Giám Sinh khi y mua Kiều. Hành động  buôn thịt bán người bỉ ổi của Mã đã được ngụy trang bởi hai chữ vu quy. Dòng thơ “Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong” như một minh chứng cho bản chất thấp hèn, ti tiện của Mã. Vu quy không còn mang ý nghĩa vui vẻ. Chữ vu quy đánh dấu bước đầu tiên 15 năm lưu lạc của cuộc đời Thúy Kiều. Câu 957-958: “Đủ điều nạp thái vu quy/ Đã khi chung chạ, lại khi đứng ngồi” là lời của Thúy Kiều nói với Tú Bà. Rằng, nàng và Mã có lễ cưới, có rước dâu hẳn hoi chứ nàng đâu phải là gái làng chơi, để mụ Tú sinh chuyện. Kì thực, nàng Kiều lúc này còn chưa hiểu hết cơ sự khi sa chân vào chỗ của bọn “mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường”. Vu quy chuyển sang ý nghĩa thông báo một sự kiện đã xảy ra như bao sự kiện khác chứ không phải là một ngày trọng đại của người con gái về nhà chồng…

Câu 2263-2264: “Cung nga thể nữ nối sau/ Rằng vâng lệnh chỉ rước chầu vu quy”. Câu thơ tả cảnh giáp binh, quân tướng của Từ Hải với “phượng tiễn loan nghi; hoa quan chấp chới…” đến đón Kiều về làm phu nhân Từ Hải.  Có lẽ, trong Truyện Kiều, trường hợp chữ vu quy này được dùng đắc địa, đúng như ý nghĩa, tính chất của nó. Đặc biệt là đối với Kiều. Lấy Từ Hải, nàng mới có hạnh phúc. Truyện Kiều, còn một trường hợp có chữ vu quy: “Tuy rằng hai chữ vu quy/ Vui này đã cất sầu kia được nào” (câu 2843 –2844)
 Đây là tâm sự của Kim Trọng khi chàng cưới Thúy Vân về làm vợ. Song, khách quan mà nói, nếu chàng Kim mà dùng từ vu quy thì e rằng không ổn lắm…


Trong cuộc sống hiện nay, ở mỗi thôn xóm, mỗi bản làng, mỗi phường phố, khi người con gái đi lấy chồng, gia đình nhà gái thường treo hai chữ VU QUY rất to trên cổng. Song không biết có bao nhiêu “tân cô dâu” suy nghĩ về hai chữ này? Đi lấy chồng là chuyển sang một môi trường sống mới với biết bao mối quan hệ, còn gặp biết bao bộn bề của cuộc sống. Nàng dâu đã chuẩn bị hành trang cho mình những gì để bước vào cuộc sống làm dâu bên nhà chồng? Qủa thực, ẩn chứa đằng sau hai chữ Vu quy ấy, có biết bao nhiêu vấn đề. Dư luận xã hội đã lên án nhiều cảnh đám cưới tổ chức tốn kém, vụ lợi diễn ra ở đâu đó trên cả nước. Gả chồng, vu quy không những là ngày trọng đại của đời người con gái, một đại sự của gia đình và dòng họ, nó còn là một nét văn hóa: văn hóa đám cưới. Chẳng biết, khi gả chồng, người ta thực hiện có văn hóa, theo phong tục truyền thống, thuần phong mĩ tục cao qúy của dân tộc hay không, hay đó lại là những sự tính toán về kinh tế, trao đổi. Hoặc là những sự lo âu (chạy bụng)… .

Đất nước càng văn minh, văn hóa càng phát triển, lành mạnh thì vu quy cũng phải văn minh, lành mạnh lên. Hơn nữa, chúng ta đang đứng trước sự toàn cầu hóa mạnh mẽ diễn ra trên toàn thế giới. Ngày 3 tháng 11 năm 2002, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) đã công bố Công ước quốc tế về đa dạng văn hóa. Với bản Công ước này, người ta chú ý nhiều đến vấn đề bản sắc văn hóa của các dân tộc. Tổ chức đám cưới, lễ Vu quy theo đúng phong tục tốt đẹp của cha ông là một nét văn hóa độc đáo, đặc sắc. Bảo tồn, phát huy những nét đặc sắc của phong tục cưới xin truyền thống nhưng cũng rất hiện đại là một công việc cấp thiết, mang tính thời sự cao, đồng thời cũng thể hiện một thái độ của thế hệ kế tiếp là trân trọng, cầu thị, biết giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa, một kho báu vô giá, được được chau chuốt, gọt dũa, tích tụ hàng nghìn năm  do tổ tiên để lại. Một đám cưới, một lễ Vu quy biểu hiện nét văn hóa, trình độ nhận thức và phong cách của gia đình, dòng họ. Chúng ta, ai cũng muốn, sau lễ vu quy, thì con người trong gia đình, họ hàng sống gần gũi, tình cảm, thân thiết với nhau hơn, người con gái về nhà chồng được hạnh phúc trọn vẹn, theo đúng nghĩa vu quy, lấy tình cảm, đạo đức làm trọng.

Thứ Tư, 3 tháng 11, 2010

CHỢ RONG GIỮA LÒNG HÀ NỘI


CHỢ RONG GIỮA LÒNG HÀ NỘI

Nguyễn Học  

Ngày nào cũng vậy, vào mỗi buổi sáng sớm, bầu trời còn giăng màn đêm đã nghe văng vẳng tiếng rao bán hàng mời chào quà sáng thật thiết tha:
-Ai xôi lạc, xôi dừa, xôi đỗ xanh đây…
- Ai bánh giầy, bánh giò nóng ơ…ơ…ơi…ơi…
- Ai mỳ nóng đây…..
Chiều chiều, dạo xe trên những con phố heo may ta lại gặp “những quán cóc liêu xiêu” ven đường., những quán  nước chè, kẹo lạc – mà hình như đã trở thành một “công thức”, khẩu vị quen thuộc trong đời sống hàng ngày của không ít người Hà Nội, và đã trở thành một nét rất văn hóa của Hà Nội.
Rồi lại thấy những chiếc giỏ xe chở đầy hoa quả bày bán trên khắp các nẻo đường, con phố, ngõ hẻm… Mùa nào thức ấy, bốn mùa, hoa thơm trái ngọt, những nông sản từ Bắc Trung Nam… có về đây, đầy đủ cả. Những táo, cam, dưa, lê, vải nhãn ,mang đến hương vị ngọt ngào như chính tâm hồn người nhà quê làm ra nó. Và cả những me, xoài xanh, quýt… với đầy đủ vị chua chua, chát chát, cay cay,… hình như chỉ để phục vụ những cô cậu học trò tuổi Ô mai đang mơ màng những cánh phượng hồng đỏ rực xa xa, mà càng ngày, với tốc độ đô thị hóa chóng  mặt thì cánh phượng cũng chỉ còn trên trang sách..
Và, sau một ngày làm việc căng thẳng, mọi người lại có phút thư giãn  nghỉ ngơi trong gia đình đầm ấm thì, ngoài kia lại vang lên tiếng ra hàng thật ngọt, thật êm:
-   Ai bánh khúc đây…
-   Ai tào phơ…phớ… ơ .. ơi… ơi…..
Những dư vị, những hình ảnh thân quen không biết tự bao giờ đã nhập vào trí nhớ, như phản xạ tự nhiên.
Thế rồi, bỗng nhiên tâm hồn ta mách bảo ta rằng:
-   Ừ, đúng rồi, Hà Nội có chợ rong
Ta hiểu rằng, thành phố văn hiến này còn nhiều nét văn hóa trong lòng, nhân văn lắm, giá trị lắm, không dễ nhận biết ngay được.
Chợ Rong, cái tên xa lạ màquen thuộc với mọi người, có lẽ khai sinh từ bao đời nay rồi. Những cô, bác, anh, chị…từ các miền nông thôn Bắc Bộ về đây kiếm sống, cùng với bao người Hà Nội lam lũ, vất vả khác cùng quần tụ, tìm kế sinh nhai đã hình thành chợ Rong.
Trong sự dịch chuyển vô tình mà lại hữu ý của lớp người lăn xả, vật lộn với cuộc đời để sinh sống đó, có ai ngờ lại có cả một sự giao lưu, tiếp xúc và hỗn dung văn hóa rất uyển chuyển, dung dị, hòa hợp giữa văn hóa nông thôn và văn hóa đô thị đang từng ngày, từng giờ diễn ra ở đất này.
Gánh hàng rong giản dị vậy, đơn sơ vậy thôi nhưng khơi dậy tình cảm chân thành, sâu sắc nhất từ đáy lòng ta. Ta chợt nhớ đến câu thơ trong sách giáo khoa phổ thông của thi sĩ Hoàng Cầm, nhớ tới mẹ như một điều tối linh:

“Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao bước thấp bên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt….”


Vốn liếng, hàng hóa của mẹ chỉ là:

“Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm…”

(Bên kia sông Đuống)

Hình ảnh người mẹ nghèo khổ, gian nan, cơ cực, đau khổ lầm than như thân phận con cò trong ca dao hiện ra cùng với gánh hàng rong thật đẹp
Cuộc đời mẹ, vật chất chỉ có thế thôi nhưng tấm lòng mẹ đối với các con thơ, với quê hương thì sao nói hết được.
Có ai biết rằng, Mẹ - tình thươngbao la của mẹ đôi quang gáng cùng mớ hàng rong kia đi cùng lịch sử, ttrường tồn cùng dân tộc, sẽ sưởi ấm tâm hồn các con, cùng lặn lội trên khắp chiến trường đánh Pháp, đánh Mỹ. Mẹ đã dạy cho chúng ta biết đặt gánh nặng non sông lên đôi vai nhỏ bé của mình….

Gánh hàng rong và những người nông dân chất phác còn phảng phất mùi rơm rạ, bùn lầy đi từ những bờ tre đôn hậu qua biết bao cuộc chiến tranh thần thánh vĩ đại của dân tộc bây giờ đây lại trở về với thành phố ngót 1.000 năm tuổi này. Thật đáng quý và đẹp đẽ biết bao.

Hãy nhìn kỹ mà xem, một rổ khoai, một gánh hoa, một cân dưa, một lạng me… đằng sau đó là cả một cuộc sống. Trong ánh mắt hồn hậu, trong sáng của người bán hàng rong, ta nhận ra một điều, ở đó có niềm tin và hy vọng mãnh liệt.
Bởi những tần tảo, khó nhọc sớm khuya của họ, cuối cùng chỉ đạt mục đích cao nhất là nuôi nấng, bồi dưỡng chăm sóc những con, em, cháu của họ, những người được gọi là “những trí thức tương lai” của đất nước đang đèn sách dùi mài kinh sử ở các trường phổ thông, các trường đại học…

Họ có lo cho riêng mình đâu? Đến thăm nơi ở của họ tại Phúc Xá, Phúc Tân, Hà Đông, Định Công… thấy họ sinh hoạt thật tiết kiệm và ăn uống giản đơn đến bát ngờ: Một bát cơm và vài miếng cà, cọng rau, cùng dăm miếng thịt lơn ba chỉ kho mặn…Hàng chục người không giường, không màn mà trải chiếu dài hàng ngang cùng chung giấc để đảm bảo cho ngày mai tiếp tục chiến đấu mưu sinh…
Ấy thế nhưng, họ là người hạnh phúc. Bởi vì, đơn giản thôi, họ có niềm tin và tình yêu thương, họ là người lao động chân chính, lao động vì tương lai tốt đẹp hơn.
Không hoành tráng như siêu thị, không đồ sộ, quy mô như chợ ĐồngXuân, cũng không có quảng cáo thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng… nhưng chợ rong lại đến với cuộc sống, với  xã hội, với người mua, với Hà Nội rất nhanh, rất gần, rất nhớ và rất văn hóa.
Chợ rong để lại ấn tượng khó quên trong lòng du khách cả Tây lẫn ta.
Chợ Rong trở thành bộ phận không thể thiếu ở đất này,đã và đang tô điểm cho Hà Nội mến yêu như một trang sức lạ, hiếm và độc đáo.

Có những vấn đề rất giản dị, có những công việc rất bình thường những cũng rất đỗi vinh quang ở quanh ta mà ta không chú ý tới, hoặc nhiều lúc lãng quên. Đôi khi ngoảnh nhìn mà giật mình.
-2002-

Net văn hóa chợ đồng xuân

CHỢ ĐỒNG XUÂN- NÉT XƯA TRONG HIỆN ĐẠI

Link cố định 03/11/2010@13h57 4 lượt xem
Chuyên mục: LICH SU VIET NAM
Sống trong môi trường hiện đại thời nay chúng ta dành một chút thời gian nhìn lại nét văn hóa dân tộc qua những cái gần gũi nhất trong đời thường của mỗi người ......Nếu ghé thăm xin cho chủ nhà một lời bình để hoàn thiện hơn nét văn hóa về chủ đề "CHỢ ĐỒNG XUÂN". Cảm ơn mọi người đã ghé thăm
CHỢ ĐỒNG XUÂN- NÉT XƯA TRONG HIỆN ĐẠI
Nguyễn Học
Khởi đầu từ vua Lý Thái Tổ dời đô từ đất Hoa Lư ra thành Đại La mùa thu năm Canh Tuất, rồi đổi tên là Thăng Long. Từ đó trở thành kinh đô của nước Đại Việt thời Lý- Trần – Lê và theo tiến trình phát triển Hà Nội cho tới ngày nay.
…Nằm ở trung tâm trời đât
Nói đến Hà Nội không thể không nhắc tới lịch sử hình thành từ hàng ngàn năm về trước với biết bao thăng trầm, biến cải. Đất Thăng Long xưa, Hà Nội nay, trong sự nhận thức của vị vua Lý Công Uẩn thì đất đó là: “Ở chính giữa bờ cõi đất nước, được cái thế rồng cuộn, hổ ngồi, vị trí giữa bốn phương nam bắc đông tây, tiện hình thế núi sông bao bọc. Ở đó địa thế rộng mà bằng phẳng, đất đai cao ráo mà sáng sủa, dân cư không khổ về nỗi tối tăm, thấp ẩm, muôn vật đều phong thịnh tốt tươi” nên có thể “mưu toan nghiệp lớn, tính kế lâu dài cho con cháu đời sau”
Như một quy luật tất yếu đã hình thành phố phường thì không thể không có chợ. Bởi đó là nơi đáp ứng nhu cầu mua bán trao đổi những sản phẩm hàng hóa của con người để duy trì cuộc sống, đồng thời kích thích sản xuất nhằm phục vụ không ngừng sự phát triển của xã hội. Cũng vì lí do đó mà chợ trở thành một trong những trung tâm giao lưu đông đúc và nhộn nhịp ở nơi phố thị mặc dù bất cứ nơi nào. Phố chợ Đồng Xuân ra đời và nghề buôn bán ở đất kinh kỳ từ xưa tới nay cũng ra đời như vậy.
Một nét phác thảo lịch sử
Nhà văn chuyên viết tuỳ bút nổi tiếng Băng Sơn kể rằng, cách đây trên nǎm trǎm nǎm khi con sông Tô Lịch chưa bị lấp hết, người dân kẻ chợ vẫn thường tụ họp ở hai cái chợ nhỏ ngay bên bờ sông vừa trong vừa mát ấy. Một tại chỗ đền Bạch Mã, phường Hà Khẩu (Hàng Buồm nay), một nữa nơi bến và chùa Cầu Đông (số 38B Hàng Đường bây giờ). Hai chợ nhỏ họp ngay ngoài trời, trên nền đất sông, bến thuyền tấp nập, làng xóm đông vui, đổi trác sản vật quanh vùng. Chợ còn họp lan sang đền Huyền Thiên (Hàng Khoai) cạnh đó.Nǎm 1899, người Pháp dẹp mấy chợ này, dồn dân vào cái chợ to hơn, là khu đất còn trống trải của phường Đồng Xuân, mái tranh, vách nứa, rào chắn cũng chỉ là tre cắm xung quanh, ai vào cũng phải nộp thuế chợ, nên nhiều người cứ họp chợ ngay bên ngoài.
Nǎm 1890 mới bắt đầu xây dựng 1 chiếu nhà cầu, dài 52 m, tường sắt, mái tôn kẽm, cao làm chợ Đồng Xuân chính nó là một chợ to nhất Hà Nội từ ngày ấy. Tường xây dần dần được dựng và củng cố. Có 3 cổng vào chợ, và 2 ngách, một thông sang Hàng Khoai, một ngõ nhỏ hơn thông sang Hàng Chiếu. Cho đến khoảng dǎm chục nǎm gần đây, chỗ chợ Bắc Qua còn có xưởng dệt "Lơ Pa-Giơ" (Le Page), sau xưởng dệt đóng cửa, thành sân đá bóng, và dần dần thành chợ, nhập vào với Đồng Xuân như ngày nay, rộng trên một vạn mét vuông.
Nơi hội tụ và tỏa sáng
Ngay từ xa xưa, chợ Đồng Xuân không chỉ là nơi buôn bán sầm uất, điểm giao hàng đầu mối trung tâm cho các chợ, vùng xung quanh mà còn là một trung tâm văn hóa. Một nét độc đáo mang tính lịch sử và đô thị của chợ Đồng Xuân khác với nhiều chợ vùng quê cổ truyền Việt Nam, là ngày nào cũng họp, cũng có phiên. Hơn thế nữa, Đồng Xuân mang một vóc dáng hoành tráng và nguy nga, không thấy thấp thoáng bóng mái gianh, mái rạ như nhiều chợ vẫn thấy ở các miền quê…. Trong những năm thực dân Pháp đô hộ, một ngôi chợ lớn như vậy là hiếm ở Hà Nội. Nhưng dù kiến trúc và ngoại hình khác biệt nhưng những hàng hóa ở đây thì chắc rằng vẫn thuần Việt. Những hàng hóa được mua đi, bán lại vẫn là những hàng hóa thiết yếu cho cuộc sống. Vẫn là “dăm miếng cau khô, mấy lọ phẩm hồng/ vài thếp giấy dầm hoen sương sớm..” như một nhà thơ đã ghi về chợ quê Việt Nam, không thì cũng là những con cua, cái tôm cái tép rồi đến những lụa là, gấm vóc từ làng dệt Hà Đông hay những manh chiếu Hới, những đặc sản mùa nào thức ấy, hoa thơm trái ngọt từ khắp các nơi đổ về.
Trong quá trình hình thành và phát triển từ 61 phường của Thăng Long thời Trần, 36 phố phường của Đông Kinh thời Lê với những phố giăng mắc cửi đường quanh bàn cờ đến bây giờ Hà Nội có thêm hàng trăm phố phường với muôn mặt cuộc sống đa dạng, phong phú. Cũng từ đó, mà chợ Đồng Xuân lại có những hàng hóa chuyên biệt để tương ứng với các phố phường mang tên hàng, vật phẩm tiêu dùng mà người Thăng Long buôn bán như: quần áo, tiền vàng bằng giấy cho Hàng Mã, các vị thuốc dân gian cho hàng Thuốc Bắc như cam thảo, táo tàu, bạch truật, hạnh nhân, các sản phẩm chế biến từ vàng, bạc cho phố Hàng Bạc.
Những tổng kết về “ba dao” cho người dân lành nghề về đô thị lập nghiệp là “Dao cầu, dao kéo, dao phay” dường như tích tụ tại Đồng Xuân. Dao cầu đại diện cho ngành thuốc bắc, dao kéo đại diện cho người ít vốn nhưng tài hoa; cắt tóc. Dao phay biểu trưng cho người làm hàng ăn cần cù, kỹ tính.
36 phố phường kinh doanh các mặt hàng thì cũng có tất cả những sản phẩm kinh doanh đó bán tại chợ. Phải chăng, vì thế câu tục ngữ “Khéo tay hay nghề đất Kẻ Chợ” – đã thể hiện một cách cô đọng truyền thống làm ăn tài giỏi của người đất Thăng Long xưa cho tới tận bây giờ.
Có thể nói chợ Đồng Xuân không chỉ là trung tâm buôn bán to nhất, sầm uất và phong phú các loại hàng hóa ở Hà Nội mà còn là chợ đầu mối cung cấp mọi mặt hàng cho các chợ ở nhiều tỉnh trên miền Bắc.
Đứng về mặt phong thuỷ thì chợ Đồng Xuân nằm ở trục trung tâm giao thông, từ đó tỏa đi các hướng trong thành phố rất tiện lợi, đồng thời từ chợ trung tâm này còn có hàng loạt các phố và chợ vệ tinh tạo thành một màng lưới chợ phong phú, đông vui và trao đổi rất thuận lợi.
Từ chợ Đồng Xuân ta có thể thấy phong cách chợ ở đất kinh kỳ xưa và Hà Nội nay, lan tỏa tới những chợ Hôm, chợ Hàng Da, chợ Hàng Bè, ở các phố phường trong nội thị và các chợ Bưởi, chợ Mơ, chợ Long Biên ở các vùng ven đô… Đó cũng là một trong những phong thái của người Hà thành góp phần tạo nên bản sắc văn hóa của đát kinh kỳ vưa, và người Hà nội nay.
Chợ Đồng Xuân nằm ở vị trí ngay gần bờ đê sông Hồng – dòng sông vẫn lặng lẽ chở phù sa bồi đắp cho cuộc sống của người Việt từ hàng ngàn năm nay. Từ chợ Đồng Xuân đi về hướng nào cũng tiện. Hướng đi lê Chèm, hướng đi về Hoàng Hoa Thám, hướng ra Bờ Hồ, hướng đi Cửa Đông, Ô Quan Chưởng, hướng đi Quán Thánh. Chợ Đồng Xuân lại rất gần với ga Long Biên. Từ đây, hàng hóa đến và đi những chuyến tàu đi về các miền của Tổ Quốc.
Đặc biệt, dòng sông Hồng trở nên hiền hòa và thanh bình hơn khi năm 1902, người Pháp đã khánh thành cây cầu Long Biên lịch sử do Daydé & Pillé thiết kế và thi công. Cũng từ cây cầu Long Biên nên chợ Đồng Xuân lại càng thuận tiện cho giới thương nhân để chuyển hàng đến và đi xuống các tỉnh bên kia sông như Bắc Ninh, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Cao Bằng.... Và từ chợ đầu mối Đồng Xuân này, hàng hóa lan tỏa đến các chợ phụ cận để cung ứng kịp thời hàng hóa, dịch vụ cho người dân Hà Nội như chợ Hàng Da, chợ Long Biên, chợ Hôm, chợ Bưởi, chợ Mơ, chợ Hàng Bè… Câu tục ngữ “Nhất cận thị, nhì cận giang”, nếu đặt vào phố chợ Đồng Xuân thì đạt cả hai. Chẳng biết ngày xưa các cụ theo ngành quy hoạch nào mà tài tình đến thế? Hay chỉ là những tri thức dân gian được đúc kết từ ngàn năm lịch sử?
Chợ Đồng Xuân không chỉ mang vai trò của một ngôi chợ mà rộng hơn, Đồng Xuân mang vai trò của một điểm giao lưu văn hóa. Các sản phẩm, hải sản từ Bắc đến Nam, từ Đông đến tây đều vận chuyển về đây rồi lan tỏa đi các nơi, cũng từ đó, người kinh doanh hàng hóa vô tình hay hữu ý đã mang theo các yếu tố văn hóa của vùng miền họ sinh sống để giao lưu và hội nhập với văn hóa Thăng Long? Như một tính tất yếu của văn hóa kinh kỳ là hội tụ và tỏa sáng mà chợ Đồng Xuân đã vượt lên trên yếu tố chợ thông thường mà cõng trên mình chất văn hóa - một đặc điểm độc đáo trong các chợ ở Việt Nam. Vì lẽ đó, cách thức mua hàng, bán hàng ở Đồng Xuân cũng thực sự văn hóa.
Hơn thế nữa, là một nhân chứng của lịch sử, chợ Đồng đã chứng kiến cuộc chiến đấu oanh liệt cả Trung đoàn Thủ đô anh hùng trong những ngày toàn quốc kháng chiến năm 1946 ngay tại khu chợ với bao chiến công lẫy lừng. Trong cuốn ”Nguời và cảnh Hà Nội”, nhà nghiên cứu Hoàng Đạo Thuý đã nhận định rất chính xác rằng ”Xem các phường phố, các cánh đồng, mỗi bước là gặp những vết tích xưa, những kết quả mới, thấy rõ rằng ông cha chúng ta bị bó buộc đến mức nào mà vẫn viết nên lịch sử ’
Đồng Xuân ngày nay vẫn toạ lạc bên phố Hàng Đường với vóc dáng và diện mạo như xưa. Trải qua biết bao thăng trầm và biến cố lịch sử, nét văn hóa của chợ Đồng Xuân vẫn tiếp tục được bồi đáp và lan tỏa.
Dưới tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường, chợ Đồng Xuân vẫn giữ được những nét văn hóa hào hoa, tao nhã của đất Tràng An xưa, Hà Nội nay, minh chứng cụ thể là những dòng người tấp nập đổ về mua bán, trao đổi hàng hóa và thưởng lãm khung cảnh của chợ và phố cổ Hà thành. Như một sự khẳng định, Đồng Xuân vẫn là ngôi chợ của Hà Nội không những lớn về tầm vóc quy mô, mà còn lớn ở sự lan tỏa văn hóa. Đồng Xuân - một nhân chứng của lịch sử Thăng Long Hà Nội mãi là một địa chỉ quen thuộc và trân trọng không thể thiếu cho những lớp người Hà Nội về cả phương diện thương mại lẫn văn hóa.